Tin mới
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kinh tế tư nhân là động lực, không phải “chệch hướng”- Bài 2: Nghị quyết 68 thể hiện tầm nhìn chiến lược, đổi mới tư duy

Nghị quyết 68 được đánh giá là bước phát triển sáng tạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản là một sự ngộ nhận

Nghị quyết 68 được các chuyên gia và nhà kinh tế đánh giá là một bước phát triển sáng tạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng từ khi ra đời Nghị quyết 68 đã bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm cách chống phá. Trước đó, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng bị các thế lực thù địch công kích.

Để vạch rõ bản chất của sự chống phá này, chúng tôi xin làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn để thấy được kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sáng tạo đặc sắc trong lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Xét về bản chất, thực hiện đầy đủ những giá trị trên chính là tạo ra giá trị chung mà mỗi người Việt Nam chân chính đều mong muốn.

Thời gian qua đã có nhiều giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

Thời gian qua đã có nhiều giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

Trong bài viết: “Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Cộng sản, PGS, TS Ngô Tuấn Nghĩa, Viện trưởng Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Về mặt lý luận, không ở đâu có cái gọi là “kinh tế thị trường nhất nguyên”, càng không có “kinh tế thị trường tự do trừu tượng”, cũng không có “kinh tế thị trường nào là độc đoán, chuyên chế”. Sự cố tình lập lờ, tráo lộn các phạm trù kinh tế với các phạm trù chính trị là lập luận sai trái, âm mưu nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động”.

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, kinh tế thị trường là kết quả tự nhiên của tiến trình văn minh, ra đời từ khi con người biết phân công lao động và trao đổi sản phẩm. Ở đâu có sự tách biệt về lợi ích, ở đó hình thành hàng hóa và thị trường. Quá trình ấy vận động khách quan, vượt lên trên mọi ý chí chủ quan. Vì thế, kinh tế thị trường không phải là đặc sản của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của nền văn minh loài người.

Việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, hay cho rằng chỉ trên nền tảng tư bản mới có thể tồn tại kinh tế thị trường, là một sự ngộ nhận. Kinh tế thị trường là một phương thức tổ chức sản xuất, còn chủ nghĩa tư bản chỉ là một hình thái xã hội trong đó phương thức ấy phát triển ở trình độ nhất định. Coi kinh tế thị trường như “đặc quyền” của tư bản chẳng khác nào đánh đồng cái phổ quát với cái cá biệt. Đây là một sai lầm cả về lý luận lẫn thực tiễn.

Mỗi quốc gia khi phát triển kinh tế thị trường đều gắn nó với điều kiện lịch sử, văn hóa và thể chế riêng. Không có một mô hình thị trường chung cho toàn nhân loại. Kinh tế thị trường ở Mỹ khác với Đức; ở Nhật khác với Thụy Điển. Điểm chung là ở đâu cũng có sự điều tiết của Nhà nước nhằm khắc phục khuyết tật của thị trường, như: Bất bình đẳng, độc quyền, suy thoái môi trường. Không có nền kinh tế thị trường “tự do tuyệt đối” hay “vô chính phủ”.

Biến quy luật thị trường thành công cụ phục vụ con người

Trước hết phải khẳng định rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn phát triển của Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ sản xuất vật chất, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.

Các Mác chỉ rõ, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa ở giai đoạn cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) cũng không còn tồn tại. Lênin cũng cho rằng: Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu “không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại... thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”. Tuy nhiên, trước khi không còn cơ sở tồn tại, bản thân nhà nước và kinh tế thị trường lại cần thiết cho quá trình xây dựng thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Logic này được Lênin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước Nga. Khi Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, ngay bản thân Lênin, trong giai đoạn đầu cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó Lênin nhận ra sai lầm, nóng vội nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền kinh tế đất nước sau chiến tranh. Lênin đã chỉ ra con đường khắc phục thông qua triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP), tức chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận mức độ nhất định cơ chế thị trường. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành còn nhiều khó khăn, cần phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần…và chủ trương này đã thành công.

Nghị quyết 68 đưa ra các giải pháp cụ thể để bảo đảm doanh nghiệp tư nhân tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển. Ảnh: quangninh.gov.vn

Nghị quyết 68 đưa ra các giải pháp cụ thể để bảo đảm doanh nghiệp tư nhân tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển. Ảnh: quangninh.gov.vn

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời và phát triển trong quy luật phổ biến ấy. Đây là mô hình đặc sắc, mang dấu ấn riêng, kết hợp giữa cơ chế thị trường năng động với vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm phục vụ con người và hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây chính là sáng tạo lý luận lớn của Đảng ta kết hợp hài hòa ba yếu tố: (1) Cơ chế thị trường năng động; (2) vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (3) định hướng giá trị nhân văn và công bằng xã hội. Sự tích hợp này không sao chép bất kỳ mô hình nào trên thế giới, mà hình thành từ thực tiễn đổi mới, từ bài học lịch sử, từ nhu cầu phát triển của đất nước.

Nếu các nền kinh tế thị trường khác hướng chủ yếu vào tối đa hóa lợi nhuận, thì mô hình Việt Nam lấy con người làm trung tâm, coi lợi ích xã hội là mục tiêu cao nhất của phát triển. Thị trường được thừa nhận như một động lực thúc đẩy sản xuất, nhưng luôn được dẫn dắt bởi định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng và nhân văn trong phân phối thành quả. Nói cách khác, Việt Nam đã biến các quy luật thị trường thành công cụ phục vụ con người, chứ không để con người bị chi phối bởi thị trường. Nó khẳng định tư duy độc lập, bản lĩnh kiên định và trí tuệ của Đảng ta trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước.

Thế nhưng, các thế lực thù địch thường lợi dụng sự khác biệt này để xuyên tạc. Họ cho rằng “kinh tế thị trường thuộc về đa nguyên”, còn “định hướng xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên”; rằng thị trường gắn với tự do, còn định hướng xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với chuyên chế. Cách lập luận đó cố tình đánh tráo khái niệm, không phân biệt thể chế chính trị với mô hình kinh tế, càng không hiểu bản chất nhân văn, có cơ sở khoa học và phù hợp thực con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang theo đuổi.

Nghị quyết 68: Tầm nhìn chiến lược dựa trên sự đổi mới tư duy

Thực tiễn sau gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh chúng ta không chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mà những mục tiêu của xã hội chủ nghĩa ngày càng được thực hiện tốt hơn. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng cao, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên; quốc phòng an ninh được tăng cường; quan hệ quốc tế được mở rộng.

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, đến nay quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 476,3 tỷ USD năm 2024, hướng tới 510 tỷ USD vào năm 2025.

Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008, trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN, thứ 32 thế giới. GDP bình quân đầu người đạt mức 4.622 USD năm 2024, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới; tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9%; tuổi thọ của người dân tăng lên 76 tuổi từ mức 61 tuổi vào những năm 1970. Tính đến tháng 5-2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; trong đó có 13 nước là đối tác chiến lược toàn diện...

Trong giai đoạn đại dịch Covid-19, ưu thế của mô hình này càng được khẳng định rõ ràng: Kinh tế vẫn duy trì ổn định, trong khi mạng lưới an sinh xã hội được mở rộng, đời sống nhân dân được bảo đảm. Sự chủ động, linh hoạt của Nhà nước cùng tinh thần đoàn kết của toàn dân đã tạo nên “lá chắn” vững chắc mà nhiều quốc gia khác phải ghi nhận và học hỏi.

Những thành tựu đó là bằng chứng hùng hồn phản bác mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận bản chất tiến bộ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chính định hướng xã hội chủ nghĩa mới giúp kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển lành mạnh, bền vững, mang lại lợi ích cho toàn dân, chứ không phải cho một nhóm thiểu số.

Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kết quả của một quá trình tìm tòi, sáng tạo và thích ứng không ngừng. Đó không chỉ là mô hình kinh tế, mà còn là một con đường phát triển mang bản sắc Việt Nam, nơi lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội được dung hòa trong khuôn khổ kỷ cương, nơi phát triển kinh tế gắn liền với sự phát triển con người.

Việt Nam đã chọn cho mình hướng đi riêng, không sao chép của bất cứ quốc gia nào. Đó vừa tiếp thu tinh hoa nhân loại, vừa dựa vào truyền thống và thực tiễn dân tộc. Chính sự kiên định và sáng tạo đó đã làm nên sức mạnh, giúp đất nước đứng vững trước thử thách và ngày càng tự tin bước vào tương lai.

Bởi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang hiện diện sống động trên từng công trình, từng cánh đồng, từng đô thị của Việt Nam hôm nay. Nó khẳng định một chân lý giản dị mà sâu sắc: Chỉ khi phát triển vì con người và do con người, nền kinh tế mới thực sự bền vững.

Việc Nghị quyết 68 ra đời không chỉ để khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân, mà còn để củng cố một tầm nhìn chiến lược trên sự đổi mới tư duy của quá trình nhận thức của Đảng ta, đó là: Phát triển đất nước bằng sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần, trong đó Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi thành quả đạt được là một viên gạch đặt nền cho tương lai, là lời đáp trả sắc bén nhất trước mọi luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật.

Sức sống của nền kinh tế Việt Nam hôm nay không chỉ được đo bằng con số tăng trưởng, mà còn bằng niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường mà đất nước đã chọn. Và chính niềm tin ấy, chứ không phải bất kỳ luận điệu nào – mới là động lực vững bền đưa Việt Nam tiến bước trên con đường phồn vinh, hạnh phúc.

Bài 3: Những căn cứ xác đáng


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết