Cải thiện sinh kế cho người dân Trà Tân từ kinh tế xanh và bền vững
Bằng việc hướng đến kinh tế xanh và bền vững, nhất là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, tận dụng lợi thế để phát triển các loại hình du lịch, tạo mối liên kết chặt chẽ cùng HTX, kỳ vọng người dân xã Trà Tân (Đà Nẵng) sẽ ngày càng cải thiện sinh kế, xóa đói giảm nghèo, có cuộc sống sung túc.
Xã Trà Tân được hình thành trên cơ sở sáp nhập hai xã cũ Trà Giác và Trà Tân thuộc huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam trước đây. Trong xã hiện có 1.503 hộ dân với 6.293 nhân khẩu, người dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số. Mới đây, lãnh đạo Tp. Đà Nẵng đã chỉ đạo xã cần phát triển mạnh theo hướng kinh tế xanh và bền vững.
Tận dụng lợi thế để phát triển các loại hình du lịch
Theo đó, xã Trà Tân trong thời gian tới cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, phát triển các sản phẩm OCOP đặc trưng. Đồng thời, xã cần có các giải pháp thu hút và đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, gắn với hành trình du lịch về nguồn kết nối các điểm di tích lịch sử.
Ở Trà Tân có rất nhiều triển vọng phát triển các loại hình du lịch như du lịch di tích lịch sử, du lịch sinh thái và du lịch dựa vào cộng đồng. |
Ông Nguyễn Hồng Lai, Bí thư Đảng ủy xã Trà Tân, cho biết xã sẽ huy động, lồng ghép sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững. Trong đó, chú trọng phát triển chăn nuôi, nông - lâm nghiệp gắn với thương mại - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp.
Hơn thế nữa, theo ông Lai, sản xuất nông nghiệp của xã sẽ được phát triển theo hướng liên kết chuỗi, mang tính bền vững, động viên nhân dân tham gia để phát triển kinh tế hộ gia đình, vì sự phát triển của địa phương.
Xét về hướng phát triển kinh tế xanh và bền vững, một trong những lợi thế lớn mà xã Trà Tân cần tận dụng chính là tiềm năng du lịch. Theo giới chuyên gia, ở vùng cao Trà Tân có rất nhiều triển vọng phát triển các loại hình du lịch như du lịch di tích lịch sử, du lịch sinh thái và du lịch dựa vào cộng đồng.
Chẳng hạn như quần thể Khu di tích lịch sử Trung Trung bộ - Nước Oa là một trong những “tổng hành dinh giữa rừng xanh” của xã Trà Tân. Hiện nay, tại quần thể này đã có 11 điểm di tích, khu lưu niệm, bia tưởng niệm đã và đang được trùng tu, xây mới. Trong số 11 điểm di tích thì có 3 di tích được công nhận là di tích cấp quốc gia.
Ngoài ra, về với xã vùng cao này, du khách có thể cùng trải nghiệm nhiều lễ hội như ăn trâu huê, đấu chiêng, Tết mùa CàZim… Đây cũng là một trong những nét đẹp của người Co vùng cao ở xã Trà Tân sau mùa thu hoạch lúa rẫy hằng năm.
Mặt khác, xã Trà Tân có nhiều cơ hội liên kết phát triển du lịch dọc theo tuyến Quốc lộ 40B với khu vực Tiên Phước, Hiệp Đức, vùng sâm Ngọc Linh Nam Trà My và hướng lên khu vực Măng Đen, tạo nhiều thuận lợi hơn nữa cho hoạt động du lịch trong tương lai.
Tăng nguồn thu từ kinh tế vườn
Lãnh đạo xã Trà Tân cho biết thời gian tới, địa phương tiếp tục khai thác tiềm năng, chú trọng đầu tư lĩnh vực du lịch để tạo điểm đến hấp dẫn, thu hút du khách, góp phần cải thiện sinh kế, mang lại nguồn thu cho người dân.
![]() |
Phát triển kinh tế vườn giúp tăng thu nhập cho người dân Trà Tân. |
Để làm được điều này, xã sẽ định hướng người dân, đồng bào dân tộc thiểu số về giữ gìn nếp sống, bảo vệ môi trường, tái tạo cảnh quan, trồng cây để phát triển kinh tế, đồng thời tạo thu hút trong phát triển du lịch. Cùng với đó là phát triển nghề đan lát mây tre truyền thống, ẩm thực địa phương, tiếp tục phát triển đội múa cồng chiêng phục vụ du lịch.
Ngoài tiềm năng du lịch thì nhờ sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền, nhiều hộ dân ở xã Trà Tân đã có thêm nguồn thu nhập khi cải tạo vườn tạp trồng các loại cây ăn quả. Không chỉ bộ mặt nông thôn thay đổi mà tỷ lệ hộ nghèo ở Trà Tân đến nay cũng giảm đáng kể nhờ những vườn cây ăn quả này.
Như vườn cây của bà Trương Thị Hoa (thôn 1, xã Trà Tân) chỉ rộng khoảng 1.500m2. Trước đây là vườn tạp sau nhà, nhờ hỗ trợ của địa phương mà bà đã cải tạo lại vườn, nhận 40 cây cam giống, 10 cây sầu riêng, 15 cây măng cụt về trồng.
“Từ hỗ trợ của Nhà nước mà gia đình tôi có động lực cải tạo lại vườn, trồng các loại cây ăn quả. Dù với quy mô nhỏ, nhưng trái cây trong vườn tới mùa là có người tới mua. Mỗi năm như vậy, trung bình cũng thu về được 15 triệu đồng”, bà Hoa chia sẻ.
Hoặc như ông Dương Phú Hoa (thôn 1, xã Trà Tân) mỗi năm đều đặn thu nhập khoảng 10 - 15 triệu đồng từ vườn cau. Khu vườn của ông Hoa rộng 1ha, nhiều năm trước, khi chính quyền địa phương có cơ chế hỗ trợ cải tạo vườn tạp, phát triển các loại cây ăn trái, ông liên tục nhận được các loại cây giống cau, bưởi, quýt, mít... và phân bón. Hiện nay, ngoài nguồn thu từ vườn cau, thu nhập tăng thêm từ vườn trái cây của ông Hoa khoảng hơn 50 triệu đồng mỗi năm và sẽ còn tăng thêm trong những năm tiếp theo.
Có thể nói, việc khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại là một chính sách khiến nhân dân ở Trà Tân phấn khởi và phát huy được hiệu quả rõ nét nhất.
Điển hình như thôn 1, xã Trà Tân có 221 hộ, với 857 nhân khẩu, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 90% dân số. Những năm gần đây, từ các hoạt động hỗ trợ phát triển kinh tế vườn để giảm nghèo, nâng cao đời sống, ý thức vươn lên của người dân đã chuyển biến tích cực.
Tạo mối liên kết chặt chẽ cùng HTX
Từ những cơ chế, chính sách của các cấp chính quyền, xã Trà Tân đã hỗ trợ cho hơn 200 hộ dân thôn 1 thực hiện cải tạo vườn tạp và nhân rộng mô hình trồng cây ăn quả. Ước tính hằng năm, trung bình thu nhập tăng thêm từ mỗi vườn cây ăn quả này đạt hơn 10 triệu đồng. Đối với địa phương miền núi, điều kiện phát triển kinh tế còn nhiều khó khăn, thì đây là một khoảng thu nhập đáng kể.
![]() |
Tạo mối liên kết chặt chẽ với HTX giúp bà con ở Trà Tân có thu nhập ổn định từ cây quế bản địa. |
Người dân ở đây đã tham gia các chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Qua tham khảo thực tế, thôn đã chọn thực hiện một số mô hình trồng sắn cao sản, nuôi heo đen bản địa, bò cỏ, dê... để nhân rộng vì phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và tập quán canh tác, chăn nuôi của người dân, dễ tiêu thụ sản phẩm.
Kết quả đến nay tại thôn 1 đã chuyển đổi được 20ha đất kém hiệu quả sang trồng sắn cao sản, bình quân 1ha mang về nguồn thu cho người dân 30 - 45 triệu đồng. Đàn bò, heo, dê đều tăng số lượng, giá cả thu mua ổn định, từng bước giảm nghèo hiệu quả.
Hoặc như ở địa bàn xã Trà Giác (cũ), thời gian qua, hàng chục hộ dân đã có mối liên kết chặt chẽ với HTX Quế Trà My - Minh Phúc để tạo ra vùng nguyên liệu bền vững cho việc trồng và chế biến sản phẩm từ cây quế. Việc cùng HTX xây dựng mô hình phát triển cây quế theo chuỗi giá trị, phát triển hướng sản xuất hàng hóa bền vững, đã giúp cuộ sống của người dân địa phương được nâng lên rõ rệt, nhiều hộ dần thoát khỏi cảnh đói nghèo, vươn lên khá giả.
Ở địa bàn xã Trà Giác (cũ) hiện có khoảng 50ha quế bản địa. Hiện nay, cùng với các mô hình phát triển kinh tế như chăn nuôi, trồng trọt, đồng bào đã ý thức hơn trong việc khôi phục cây quế bản địa. Việc liên kết cùng với HTX để trồng và tiêu thụ cũng chính là động lực để bà con nỗ lực chăm sóc, phát triển cây quế.
Với các xã vùng cao như Trà Tân vốn tập trung đông đảo bà con dân tộc thiểu số, việc định hướng phát triển kinh tế xanh và bền vững nhằm cải thiện sinh kế cho người dân cũng là mối quan tâm của Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX Tp. Đà Nẵng cũng như Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam trước đây. Chính vì vậy, thời gian qua đã có những hoạt động hỗ trợ cụ thể cho người dân, nhất là dành nhiều nguồn lực phát triển kinh tế HTX nhằm giúp đồng bào dân tộc thiểu số khai thác tiềm năng, lợi thế, vươn lên thoát nghèo.
Bên cạnh đó là việc tích cực phối hợp với chính quyền địa phương triển khai thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ để phát triển mô hình HTX, hỗ trợ các tổ chức kinh tế tập thể hoạt động hiệu quả. Đồng thời, hỗ trợ cho người dân sản xuất theo chuỗi giá trị cùng HTX, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm và hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế cho đối tượng hộ nghèo, cận nghèo.
Thanh Loan