Tin mới
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

HTX tạo "cầu nối" trong bảo hiểm nông nghiệp

Sau nhiều năm triển khai bảo hiểm nông nghiệp (BHNN), đặc biệt là theo Nghị định số 58/2018/NĐ-CP, công cụ hạn chế rủi ro này tại Việt Nam vẫn chưa thể phát triển tương xứng với tiềm năng của một quốc gia nông nghiệp. Những khó khăn, vướng mắc từ chính sách, quy trình thực hiện đến nhận thức của người dân đang là rào cản lớn, khiến thị trường này trở nên èo uột và thiếu sức sống.

Thực trạng này đặt ra một câu hỏi lớn về hiệu quả của một công cụ an sinh quan trọng cho nông dân, HTX và liệu đâu là lối thoát cho một ngành hàng đầy rủi ro như nông nghiệp?

Chỉ còn 3.630 hộ tham gia 

Nhìn vào những con số do Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổng hợp, có thể thấy rõ bức tranh toàn cảnh về sự chững lại đáng lo ngại của BHNN.

Giai đoạn 2019-2021, cả nước có hơn 16.000 hộ nông dân tham gia, nhưng từ năm 2022 đến nay, con số này đã giảm mạnh xuống chỉ còn 3.630 hộ. Sự sụt giảm đột ngột này đã kéo theo doanh thu phí bảo hiểm chỉ đạt khoảng 6,9 tỷ đồng, trong khi chi trả bồi thường vỏn vẹn 198 triệu đồng.

Các sản phẩm bảo hiểm cho thủy sản, cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, dù đã được mở rộng trong quy định nhưng vẫn "đứng yên tại chỗ", chưa thể triển khai trên thực tế.

Những con số này không chỉ phản ánh sự thiếu hấp dẫn của chính sách mà còn cho thấy khoảng cách lớn giữa quy định trên giấy tờ và điều kiện triển khai thực tế.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, chỉ ra rằng nguyên nhân chính là các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) còn e ngại, bởi nghiệp vụ BHNN quá phức tạp, rủi ro cao, thiếu tính linh hoạt và không đủ hấp dẫn để thu hút các nhà tái bảo hiểm quốc tế. Hơn nữa, DNBH còn gặp phải nhiều rào cản về dữ liệu, nhân lực và mạng lưới phục vụ trên địa bàn, khiến họ không mặn mà với một nghiệp vụ đầy rủi ro.

Không chỉ riêng phía các DNBH, chính người nông dân và các HTX, những đối tượng thụ hưởng trực tiếp, cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc khi tham gia BHNN. Đối với nông dân, nỗi lo lớn nhất vẫn là chi phí.

-6534-1757495948.jpg

Nông nghiệp là ngành chịu nhiều rủi ro từ thiên tại, dịch bệnh, thị trường.

Dù biết BHNN là cần thiết, nhiều người vẫn còn ngần ngại vì với thu nhập bấp bênh, khoản phí BHNN dù được hỗ trợ một phần vẫn là một gánh nặng tài chính đáng kể. Hơn nữa, nhận thức về rủi ro của người dân chưa thực sự đầy đủ. Nhiều người vẫn có tâm lý "trông trời, trông đất, trông mây", tin vào kinh nghiệm canh tác truyền thống hơn là một công cụ tài chính mới mẻ. Họ chưa thật sự coi thiên tai, dịch bệnh là những rủi ro cần được phòng ngừa bằng bảo hiểm.

Bà Vũ Thị Thúy, một nông dân trồng lúa tại Hưng Yên, thẳng thắn chia sẻ: “Bà con ở đây chỉ lo làm sao lúa tốt, bán được giá. Chuyện bảo hiểm thì ai cũng biết là tốt đấy, nhưng đóng tiền rồi chờ đợi, chẳng may không có rủi ro gì thì phí mất. Thà giữ tiền đó để mua thêm phân bón, thuốc trừ sâu còn hơn”.

Tuy nhiên, thực tế cũng đã chứng minh rằng khi có sự vào cuộc chủ động của các HTX, BHNN hoàn toàn có thể được triển khai hiệu quả. Một trong những câu chuyện thành công điển hình là HTX Mỹ Đông 2 tại Đồng Tháp. HTX này đã triển khai thử nghiệm bảo hiểm chỉ số cho vùng lúa gần 100ha. Mô hình này chi trả bồi thường dựa trên chỉ số mưa vệ tinh, giúp quy trình giám định trở nên nhanh chóng và khách quan hơn. HTX đóng vai trò trung tâm, không chỉ là đơn vị thống kê năng suất mà còn giám sát và tổ chức truyền thông, giúp bà con hiểu rõ hơn về bảo hiểm. Kết quả, mô hình được triển khai đúng vụ và sát thực tế, người dân hài lòng vì có HTX đại diện đàm phán các điều khoản rõ ràng, và chi phí vận hành giảm tới 30% so với việc tiếp cận từng hộ.

Ví dụ trên cho thấy rằng khi HTX đóng vai trò tích cực, BHNN không còn là một nghiệp vụ xa vời hay phức tạp.

Tuy vậy, nhiều HTX chuyên nuôi thủy sản, một ngành hàng có rủi ro rất cao do dịch bệnh và biến đổi khí hậu, đã từng tìm hiểu về BHNN nhưng gặp phải nhiều vướng mắc về thủ tục hành chính, quy trình đăng ký, giám định và bồi thường đòi hỏi nhiều loại giấy tờ phức tạp, trong khi chính các HTX lại thiếu nhân lực và kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

Thêm vào đó, DNBH cần dữ liệu chi tiết về rủi ro ở từng địa bàn, từng vụ mùa để tính phí và bồi thường chính xác, trong khi nhiều HTX lại không có sẵn các dữ liệu này một cách có hệ thống, khiến việc cung cấp thông tin trở nên khó khăn.

Hơn thế nữa, mô hình BHNN hiện hành chưa được tích hợp chặt chẽ với tín dụng ngân hàng hay chuỗi sản xuất, khiến việc có bảo hiểm không giúp HTX dễ dàng tiếp cận nguồn vốn hơn để mở rộng sản xuất. Điều này khiến BHNN trở nên tách biệt, không phải là một phần của hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại.

Ông Trần Minh Hiếu, đại diện Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), cũng thừa nhận rằng việc tổ chức thực hiện tại một số địa phương còn lúng túng, việc phê duyệt đối tượng được hỗ trợ còn chậm, gây khó khăn cho việc đánh giá rủi ro và định phí bảo hiểm chi tiết đến từng xã.

Không thể thiếu vắng vai trò của HTX

Trước những "điểm nghẽn" này, các chuyên gia cho rằng cần phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và đơn giản hóa thủ tục hành chính. Theo ông Lê Đức Thịnh, cần rà soát, sửa đổi Nghị định số 58/2018/NĐ-CP để đồng bộ với Luật Kinh doanh Bảo hiểm (sửa đổi) và phù hợp hơn với thực tiễn, tạo điều kiện cho DNBH chủ động thiết kế sản phẩm. Song song với đó, Nhà nước cần đầu tư hệ thống cơ sở dữ liệu nông nghiệp số, chuẩn hóa quy trình canh tác và khung đo lường thiệt hại, đồng thời ứng dụng công nghệ giám sát từ xa như viễn thám, máy bay không người lái để giúp việc giám định tổn thất trở nên chính xác và nhanh chóng.

Một việc không kém phần quan trọng là nâng cao nhận thức và vai trò của các HTX. Theo ông Bùi Gia Anh, Tổng Thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, các địa phương cần tổ chức tuyên truyền, tập huấn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ tại các HTX. HTX cần được coi là cầu nối quan trọng giữa DNBH và nông dân, giúp tập hợp nhu cầu, chuẩn hóa quy trình và giảm bớt gánh nặng thủ tục cho từng hộ nông dân.

Bởi thực tế hiện nay cho thấy, phần lớn các mô hình BHNN vẫn diễn ra ở cấp hộ nông dân nhỏ lẻ, thiếu tổ chức trung gian như các tổ hợp tác, HTX, dẫn đến chi phí giao dịch cao (ký hợp đồng, thu phí, giám sát, bồi thường). Điều này cũng khiến DNBH không đủ dữ liệu đầu vào để thiết kế sản phẩm phù hợp, gặp khó khăn trong xác nhận tổn thất và kiểm soát rủi ro.

Trên thế giới, tại Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines…, chính sách của nhà nước yêu cầu hộ nông dân chỉ được tham gia BHNN nếu là thành viên của các tổ chức nông dân như tổ hợp tác, HTX. Kết quả là tỷ lệ nông dân được bảo vệ rủi ro nông nghiệp thông qua bảo hiểm được phủ sóng theo thời gian. Điều này cho thấy, BHNN không thể tiếp cận hiệu quả nếu không qua thiết chế trung gian là tổ nhóm nông dân hoặc HTX.

Huyền Trang


Tác giả: Chỉ còn 3.630 hộ tham gia 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết