Tin mới
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kinh tế tư nhân là động lực, không phải “chệch hướng”- Bài 3: Những căn cứ xác đáng

Các thế lực thù địch đưa ra những luận điệu xuyên tạc, cố tình bóp méo bản chất, phủ nhận nền tảng lý luận và thực tiễn của đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta.

Như đã nhận diện ở bài 1, trong bối cảnh cả nước đang triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân để trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch và cơ hội chính trị lại ra sức tung ra những luận điệu xuyên tạc, cố tình bóp méo bản chất, phủ nhận nền tảng lý luận và thực tiễn của đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta.

Những luận điểm của chúng tựu chung lại ở 4 vấn đề cốt lõi: Phát triển kinh tế tư nhân là “tư bản hóa nền kinh tế” (xa rời chủ nghĩa xã hội); “tạo mảnh đất màu mỡ cho lợi ích nhóm”; “làm gia tăng bất bình đẳng” và “khiến Việt Nam lệ thuộc tư bản nước ngoài”.

Đây là những luận điệu sai trái, thiếu căn cứ, phản ánh sự cố tình xuyên tạc bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đã lựa chọn, mô hình vừa phát huy sức mạnh của thị trường, vừa bảo đảm vai trò định hướng, điều tiết của Nhà nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Không có “tư bản hóa”, chỉ có hiện đại hóa và hội nhập

Đại tá, TS Phùng Mạnh Cường, Phó viện trưởng Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng đã bác bỏ quan điểm cho rằng, thực hiện Nghị quyết 68 là biểu hiện cho thấy Việt Nam đang “tư bản hóa”. TS Cường dẫn chứng, V.I.Lênin đã khẳng định “Không có cuộc khởi nghĩa nào lại tạo ra CNXH được, nếu chủ nghĩa này chưa chín muồi về phương diện kinh tế”. Sự chín muồi về phương diện kinh tế chính là xây dựng được lực lượng sản xuất (LLSX) là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, vượt trội. Chính trong chính sách kinh tế mới (NEP), V.I.Lênin đã chủ trương sử dụng các chuyên gia tư bản, sử dụng thành phần kinh tế tư bản nhà nước cho mục đích xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, về bản chất đó chính là sử dụng các quan hệ kinh tế thị trường cho mục đích của những người cộng sản. Nhìn từ góc độ phát triển LLSX, rõ ràng trong thời kỳ quá độ chúng ta chưa thể khẳng định là đã đủ chín muồi về mặt kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa, muốn phát triển LLSX, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho CNXH không thể phủ nhận sự tồn tại của các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ. Thế nên, việc chuẩn bị TLSX thời kỳ quá độ, việc đẩy mạnh hiện đại hóa và hội nhập không thể được cho là đi đến “tư bản hóa”.

Tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Người chỉ ra rằng, trong nước ta có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ và một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu dự phiên Đối thoại cấp cao của Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) năm 2025. Ảnh VGP

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu dự phiên Đối thoại cấp cao của Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) năm 2025. Ảnh VGP

TS Hoàng Thu Trang, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khẳng định: Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện Nghị quyết 68, Đảng ta không những không xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa mà trái lại, đang củng cố vững chắc nền tảng lý luận đó bằng thực tiễn sinh động. Việc khẳng định kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất” đánh dấu bước phát triển sáng tạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó không hề mâu thuẫn với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trái lại, đó là sự nhận thức đúng đắn về tính đa dạng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nơi mỗi khu vực có chức năng và đóng góp khác nhau, cùng hướng đến lợi ích chung của đất nước.

Doanh nhân Nguyễn Xuân Quỳnh, chủ chuỗi khách sạn và dịch vụ du lịch tại Hà Nội, chia sẻ: “Chính sách của Nhà nước những năm gần đây, đặc biệt sau khi Nghị quyết 68 ra đời, đã giúp doanh nghiệp tư nhân chúng tôi được tiếp cận tín dụng, đất đai, công nghệ dễ dàng hơn. Đó là điều kiện thuận lợi để doanh nhân đóng góp sức mình vào nền kinh tế của đất nước và đem lại thu nhập tốt cho người lao động”.

Số liệu từ Bộ Tài chính cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp gần 50% GDP, chiếm 30% tổng thu ngân sách nhà nước, sử dụng 82% lực lượng lao động xã hội. Những con số biết nói này không chỉ minh chứng cho sức sống của kinh tế tư nhân, mà còn cho thấy việc coi khu vực này là “một động lực quan trọng nhất” là hoàn toàn có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Điều này cũng khẳng định, không có chuyện thực hiện Nghị quyết 68 là điều kiện để lái Việt Nam đi theo con đường “tư bản hóa”.

Hội nghị toàn quốc quán triệt các Nghị quyết của Đảng trong đó có Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Hội nghị toàn quốc quán triệt các Nghị quyết của Đảng trong đó có Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Phát triển kinh tế tư nhân không đồng nghĩa với bất bình đẳng xã hội

Một trong những luận điệu sai trái mà các thế lực chống phá thường rêu rao là: “Phát triển kinh tế tư nhân sẽ làm gia tăng bóc lột, bất bình đẳng và chênh lệch giàu nghèo”.

TS Hoàng Thu Trang phản bác: “Chủ nghĩa Mác – Lênin không phủ nhận sự tồn tại của các hình thức sở hữu khác nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều quan trọng là Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải sử dụng cơ chế thị trường một cách thông minh để phân phối lại thu nhập, điều tiết các quan hệ lợi ích, bảo đảm công bằng xã hội”.

Thực tế chứng minh, hàng triệu người lao động đang có công ăn việc làm ổn định trong khu vực tư nhân.

Bà Nguyễn Thị Liên, công nhân một nhà máy chế biến thủy sản ở Nha Trang, chia sẻ: “Trước đây tôi làm việc tự do, thu nhập bấp bênh. Nay vào làm tại doanh nghiệp tư nhân, tôi có lương ổn định, có bảo hiểm xã hội, có môi trường để học thêm nghề. Cả gia đình tôi thoát nghèo nhờ chính công việc này”.

Những câu chuyện như lời kể của bà Liên là không hề hiếm ở Việt Nam. Đó là minh chứng sống động rằng, phát triển kinh tế tư nhân đồng nghĩa với giải phóng sức sản xuất, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân – chứ không phải là sự bóc lột như các thế lực thù địch rêu rao.

Cũng theo thống kê, kể từ khi Nghị quyết 68 được ban hành, trung bình mỗi tháng có hơn 19.000 doanh nghiệp thành lập mới, trong đó hơn 60% thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Số doanh nghiệp hoạt động trở lại tăng 27% so với cùng kỳ năm trước. Đây là chỉ dấu cho thấy niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đối với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.

PGS, TS Nguyễn Việt Khôi, Phó hiệu trưởng Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng: “Chính phủ không chỉ khuyến khích làm giàu, mà còn đặt ra yêu cầu đạo đức kinh doanh. Các doanh nghiệp được tôn vinh không chỉ vì lợi nhuận, mà vì đóng góp cho xã hội. Đó là bản chất khác biệt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Thực tế, trong Nghị quyết 68, Đảng ta đã chỉ rõ: “Doanh nhân Việt Nam phải có tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội”. Chính điều đó đã tạo nên lớp doanh nhân mới – những người làm giàu chính đáng và có ý thức phụng sự Tổ quốc.

Không có chuyện “phụ thuộc tư bản nước ngoài”

Một luận điệu khác cũng thường được các đối tượng cơ hội chính trị và thù địch rêu rao là: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân khiến Việt Nam phụ thuộc tư bản nước ngoài, làm suy yếu nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

Đây là lập luận phi lý. Nghị quyết 68 đã khẳng định rõ: “Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả”.

Báo cáo của Bộ Tài chính gần đây cho biết, trong 8 tháng đầu năm, thu ngân sách Nhà nước từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 296.000 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân mỗi tháng có 31.500 doanh nghiệp gia nhập hoặc tái gia nhập thị trường, gấp 1,3 lần số doanh nghiệp rút lui. Những con số này thể hiện năng lực nội sinh mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân trong nước, chứ không phải sự lệ thuộc vào nguồn vốn ngoại.

Ông Nguyễn Văn Cường, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Agrifeed Việt Nam, nhận xét: “Các doanh nghiệp tư nhân trong nước đang đầu tư mạnh vào công nghệ, nông nghiệp sạch, năng lượng tái tạo. Chính phủ có cơ chế hỗ trợ rõ ràng, khuyến khích sản xuất trong nước, giảm nhập khẩu nguyên liệu. Nói Việt Nam lệ thuộc tư bản nước ngoài là không hiểu thực tế”.

Đặc biệt, Nghị quyết 68 đề ra mục tiêu cụ thể: Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả, trong đó ít nhất 20 doanh nghiệp tham gia sâu chuỗi giá trị toàn cầu; đến 2045, kinh tế tư nhân phát triển bền vững, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế.

Đó là lộ trình của một nền kinh tế độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc, đồng thời tận dụng hiệu quả hội nhập toàn cầu.

Nghị quyết 68 khẳng định doanh nhân là lực lượng chủ lực kiến tạo kinh tế. Ảnh: quangninh.gov.vn

Nghị quyết 68 khẳng định doanh nhân là lực lượng chủ lực kiến tạo kinh tế. Ảnh: quangninh.gov.vn

“Lợi ích nhóm” không phải bản chất của kinh tế tư nhân

Đại tá, TS Phùng Mạnh Cường, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự (Học viện Chính trị), phản bác luận điệu “kinh tế tư nhân là mảnh đất của lợi ích nhóm”. TS Phùng Mạnh Cường nhấn mạnh, nếu có lợi ích nhóm, đó là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực, chứ không phải bản chất của kinh tế tư nhân. Nghị quyết 68 nhấn mạnh minh bạch, liêm chính và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, không can thiệp hành chính trái quy luật thị trường”.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã trở thành biểu tượng về trách nhiệm xã hội, không chỉ tạo việc làm, mà còn đóng góp mạnh mẽ cho an sinh cộng đồng. Những tập đoàn như Vingroup, Hòa Phát, FPT, Vinamilk, Masan… không chỉ là đầu tàu kinh tế mà còn là những “công dân doanh nghiệp” tích cực trong các hoạt động xã hội, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường.

Trong vấn đề này, PGS, TS Nguyễn Việt Khôi nhận xét thêm: Không thể lấy vài hiện tượng tiêu cực để phủ nhận một khu vực kinh tế đang đóng góp nửa GDP quốc gia. Chính sự minh bạch, cạnh tranh và kiểm soát quyền lực tốt mới là liều thuốc hữu hiệu chống lại lợi ích nhóm.

Những cải cách về thanh tra, kiểm tra và chuyển đổi số trong quản lý doanh nghiệp đang giúp loại bỏ cơ hội trục lợi. Các cơ quan chức năng cũng tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, giải quyết khó khăn ngay từ cơ sở – đó là cách bảo đảm “lợi ích công” thay vì “lợi ích nhóm”.

Đường lối đúng đắn - lòng dân đồng thuận

Có thể khẳng định, Nghị quyết 68 không chỉ là một văn bản về phát triển kinh tế tư nhân, mà còn là một tuyên ngôn chính trị quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nhân văn.

Nghị quyết ấy được giới doanh nghiệp đón nhận không phải bằng những khẩu hiệu, mà bằng niềm tin và hành động thực tế. Hàng triệu doanh nhân, người lao động, nhà khoa học đang cùng nhau biến tinh thần của Nghị quyết thành sức mạnh phát triển đất nước.

TS Hoàng Thu Trang khẳng định: “Không thể lấy cách nhìn tư bản để phán xét con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Chúng ta đang làm một việc chưa có tiền lệ – vận dụng sáng tạo các quy luật thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn vừa khoa học, vừa nhân văn”.

Những luận điệu xuyên tạc, dù tinh vi đến đâu, cũng không thể che mờ thực tiễn. Kinh tế tư nhân Việt Nam đang lớn mạnh, đồng hành cùng Nhà nước, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Bài 4: Chủ động đấu tranh, chủ động ngăn chặn


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết