Tin mới
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Hệ thống ngân hàng “hụt” 1,6 triệu tỷ đồng, LDR chạm đỉnh lịch sử

Tính đến cuối tháng 9/2025, tăng trưởng tín dụng đã bỏ xa tốc độ huy động vốn, khiến chênh lệch giữa dư nợ và tiền gửi nới rộng lên tới 1,6 triệu tỷ đồng. Tỷ lệ cấp tín dụng trên vốn huy động (LDR) toàn hệ thống bị kéo căng lên mức cao chưa từng có, đặt ra bài toán lớn về thanh khoản và chất lượng tăng trưởng.

Báo cáo tài chính quý III/2025 của 27 ngân hàng niêm yết cho thấy tình trạng "căng" thanh khoản diễn ra trên diện rộng. Có 21 ngân hàng tăng tín dụng nhanh hơn tiền gửi, 18 ngân hàng tăng tín dụng nhanh hơn cả huy động thị trường 1 (bao gồm cả tiền gửi và giấy tờ có giá) và 6 ngân hàng đã cho vay vượt 100% quy mô huy động.

Tín dụng tăng tốc, huy động vốn "hụt hơi"

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), bức tranh tài chính 9 tháng đầu năm 2025 ghi nhận sự lệch pha rõ rệt giữa hai đầu huy động và cho vay.

Cụ thể, tổng tiền gửi toàn hệ thống đạt gần 16,2 triệu tỷ đồng. Trong đó, tiền gửi của khối tổ chức kinh tế có sự hồi phục ấn tượng trong tháng 8 và 9 (tăng 374.000 tỷ đồng sau khi giảm mạnh vào tháng 7), đưa tổng số dư lên 8,35 triệu tỷ đồng. Tiền gửi dân cư dù tăng chậm lại nhưng vẫn thiết lập kỷ lục mới 7,83 triệu tỷ đồng, tăng 10,9% so với đầu năm.

-9741-1764669444.jpg

Nhiều ngân hàng ghi nhận tăng trưởng tín dụng nhanh hơn tăng trưởng tiền gửi.

Tuy nhiên, nỗ lực huy động vốn này vẫn không theo kịp đà tăng trưởng mạnh mẽ của tín dụng. Dư nợ toàn hệ thống đã tăng 13,86%, đạt quy mô 17,78 triệu tỷ đồng. Hệ quả là mức chênh lệch giữa huy động và cho vay đã bị nới rộng lên con số 1,6 triệu tỷ đồng.

Sự chênh lệch này khiến hệ số LDR (tỷ lệ dư nợ tín dụng/vốn huy động) toàn hệ thống bị kéo giãn lên gần 110% vào cuối quý III/2025 – mức cao lịch sử. Theo dự báo của Chứng khoán BIDV (BSC Research), con số này có thể tiếp tục tăng lên 111% vào cuối năm nay khi chênh lệch tăng trưởng tín dụng và tiền gửi duy trì trung bình khoảng 3 điểm %.

Theo Báo cáo tài chính quý III/2025, nhóm Big 4 (Vietcombank, VietinBank, BIDV và Agribank) có ưu thế về nguồn vốn rẻ nhưng cũng không tránh khỏi xu hướng căng thẳng thanh khoản. VietinBank có LDR đạt 110% khi tăng trưởng cho vay vượt xa huy động (15,8% so với 10,5%). BIDV dẫn đầu về quy mô nhưng LDR cũng tăng lên 105,3%. Tương tự, Vietcombank ghi nhận LDR vượt ngưỡng 100%, đạt 101,1%.

Nhóm ngân hàng TMCP tư nhân cũng ghi nhận những con số "giật mình". Trong đó, VPBank tiếp tục dẫn đầu hệ thống với tỷ lệ LDR lên tới 150% (huy động tăng 20,6% nhưng tín dụng tăng tới 29%). Techcombank cũng ghi nhận mức 127,1%. Hàng loạt ngân hàng khác như SeABank, OCB, VIB, LPBank, MB đều có LDR neo ở mức rất cao, từ 116% đến gần 130%.

Ở góc độ quản lý, trong tháng 11, NHNN bơm ròng 106.427,6 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ mua kỳ hạn, qua đó duy trì mặt bằng thanh khoản ổn định nhằm hỗ trợ nhu cầu tín dụng tăng cao dịp cuối năm. Xu hướng này tiếp tục duy trì trong ngày đầu tháng 12 khi lãi suất liên ngân hàng tăng vọt lên 7%/năm ở kỳ hạn qua đêm - mức cao nhất trong nhiều tháng trở lại đây. Những diễn biến mới nhất trên thị trường tiền tệ cho thấy thanh khoản VND của hệ thống ngân hàng đang có dấu hiệu thiếu hụt.

Lợi nhuận ngắn hạn nhưng rủi ro dài hạn

Việc chấp nhận đẩy LDR lên cao giúp nhiều ngân hàng tối ưu hóa lợi nhuận trong bối cảnh biên lãi thuần chịu áp lực. Thực tế số liệu quý III cho thấy, các ngân hàng có LDR cao như VPBank, Techcombank, OCB… đều ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận khả quan.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, rủi ro thanh khoản là cái giá phải cân nhắc. Khi tỷ lệ LDR quá cao, ngân hàng sẽ đối mặt với áp lực lớn nếu khách hàng rút tiền đột xuất, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh lãi suất huy động ngày càng gay gắt.

Trong bối cảnh Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo NHNN thí điểm bỏ trần tăng trưởng tín dụng từ năm 2026, việc tín dụng tăng "nóng" hơn huy động vốn gợi mở nhiều vấn đề sâu xa hơn là những con số kế toán.

GS. TS. Trần Ngọc Thơ, Đại học Kinh tế TP.HCM nhận định: Nhìn bề mặt, tín dụng tăng, LDR nhích lên và GDP tăng trưởng là tín hiệu khả quan. Nhưng ở tầng sâu hơn, nền vốn đang mỏng hơn so với quy mô tín dụng và vai trò gánh đỡ thanh khoản trung hạn của NHNN qua kênh OMO đang tăng lên.

Ông Thơ đặt ra 3 câu hỏi cho nền kinh tế: Chúng ta chấp nhận mức độ phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng đến đâu để đổi lấy tăng trưởng danh nghĩa? Cấu trúc phân bổ tín dụng hiện nay đang hỗ trợ năng suất dài hạn hay đang bị lệch về tài sản bất động sản? Việc phụ thuộc ngày càng nhiều vào OMO kỳ hạn dài và thị trường liên ngân hàng có nên được coi là "bình thường mới"?

Theo vị chuyên gia này, thay vì tranh luận con số tăng trưởng tín dụng là 15% hay 18%, điều đáng lưu tâm hơn là "Mỗi đồng tín dụng mới đang mua thêm bao nhiêu sức sản xuất thật cho nền kinh tế và bao nhiêu phần đang âm thầm được dùng để kéo dài thời gian xử lý các điểm nghẽn cũ?".

Nếu hệ thống tận dụng được giai đoạn bùng nổ tín dụng này để tái cơ cấu và thúc đẩy năng suất, đây là bước chuyển cần thiết. Ngược lại, sức ép thanh khoản hiện tại có thể chỉ là tín hiệu sớm của một bài toán lớn hơn về chất lượng tăng trưởng trong tương lai.

Theo các chuyên gia, áp lực thanh khoản không chỉ xảy ra ở thời điểm hiện nay mà kéo sang năm 2026. Nếu tính theo công thức 2,5 đồng tăng trưởng tín dụng tạo ra 1 đồng tăng trưởng kinh tế, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% trong năm 2026 thì tăng trưởng tín dụng phải ở mức 25%. Điều này đồng nghĩa nền kinh tế cần nguồn vốn rất lớn cho việc tăng trưởng trong giai đoạn tới.

Huyền Anh


Lượt xem: 1
Tác giả: Tín dụng tăng tốc, huy động vốn "hụt hơi"
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết